Welcome to CEO Meeting Room

Chào các anh chị và các bạn. Như một thông lệ của tự nhiên "có tái hợp và sẽ có chia ly". Chúng ta đã có duyên gặp mặt cũng sẽ phải có lúc chia xa. CEO Meeting Room này được thành lập với mong muốn duy trì sự liên kết giữa các anh chị em chúng ta. Nơi đây sẽ là "không gian" gặp mặt online của các thành viên lớp nói riêng và các anh em bạn bè nói chung. Chúng ta sẽ cùng nhau chia sẽ những kinh nghiệm, những ước mơ, những hoài bão để cùng nhau xậy dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Ngoài sự tham gia nhiệt tình của các anh/chị em trong thành viên lớp, chúng tôi rất sẳn sàng giao lưu với tất cả các bạn trên khắp Thế Giới, để cùng nhau chia sẽ thông tin, kinh nghiệm, kiến thức...với mong muốn làm cho thế giới ngày càng giàu mạnh và xanh tươi hơn. Hoan nghênh chào đón các bạn. Thanks.

Thursday, February 24, 2011

Triển khai gấp 7 nhóm giải pháp chống lạm phát

(VEF.VN) - Hài hòa giữa chính sách tiền tệ và tài khóa, thặt chặt chi tiêu, kiểm soát chặt về giá đồng thời quan tâm hỗ trợ người nghèo... là những biện pháp cấp bách Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các địa phương để kiềm chế lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô.

Sáng nay (24/2), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì hội nghị trực tuyến toàn quốc nhằm triển khai Nghị quyết của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.

Thắt chặt tiền tệ và chi tiêu

Tại hội nghị, Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã giới thiệu Nghị quyết, tập trung vào 7 nhóm giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện các mục tiêu trên.

Giải pháp mà Chính phủ đưa ra gồm: thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước; thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo; tăng cường bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, triệt để các nội dung trên một cách đồng bộ, thông suốt từ trung ương đến địa phương.

Đối với nhóm giải pháp về chính sách tiền tệ và tài khóa, ông Hùng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phối hợp hài hòa giữa hai nhóm chính sách này. Theo đó, nhất định phải kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%; tổng phương tiện thanh toán vào khoảng 15-16%. Vốn tín dụng sẽ được ưu tiên phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh; nông nghiệp, nông thôn; xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghịêp nhỏ và vừa. Giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản và chứng khoán.

Phó Thủ tướng khẳng định, tỷ giá và thị trường ngoại hối phải được điều hành linh hoạt.

"Sự thật là cân đối ngoại tệ ra - vào của ta vẫn có số dư, hoàn toàn có thể bảo đảm thanh khoản, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. Nhưng tới đây, vấn đề quan trọng là phải củng cố được lòng tin của người dân vào đồng nội tệ", Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

Liên quan đến chính sách tài khóa, Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan địa phương phấn đấu tăng thu ngân sách 7-8% so với dự toán năm 2011 đã được Quốc hội thông qua; sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm tiền lương và các khoản có tính chất lương; chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đã đề ra từ đầu năm).

Ảnh: Việt Thanh

Song song với kiểm soát chính sách tiền tệ là việc tiết kiệm chi tiêu, trong đó giảm chi tiêu của các đơn vị thụ hưởng ngân sách và các doanh nghiệp nhà nước.

"Sẽ tạm dừng trang bị mới xe ôtô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, không bố trí kinh phí cho những việc chưa thật sự cấp bách... Không bổ sung ngân sách ngoài dự toán trừ các trường hợp hết sức đặc biệt đã được quy định rõ và tiến tới chấm dứt việc tạm ứng vốn ngân sách cho các địa phương", Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết.

Đáng lưu ý, Chính phủ sẽ điều hành để giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP (mục tiêu đã được Quốc hội thông qua là dưới 5,3%); giám sát chặt chẽ việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn...

Điện, xăng tăng vừa phải để tránh gây sốc

Tại Hội nghị, Bộ trưởng, Chủ nhiệm văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã công bố các Quyết định số 268QĐ-TTG và 269/QĐ-TTg ngày 23-2-2011 của Thủ tướng Chính phủ về giá điện.

Giải thích thêm về các quyết định này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh nói: "Theo tính toán đầy đủ tại thời điểm này, nếu muốn cắt lỗ, giá bán điện sẽ phải tăng tới 668 đồng/kWh, tức là tăng thêm 62% so với hiện nay. Tuy nhiên, để không gây "sốc" cho nền kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội, giá điện chỉ tăng chưa tới 1/3 mức đó mà thôi. Để giữ giá như thế, Nhà nước phải chấp nhận lùi chi phí khấu hao, lùi giá bán than cho ngành điện, tạm thời không thu phí bảo vệ môi trường và khoanh lỗ cũ để xử lý dần. Ngành điện cũng phải chấp nhận không có lãi".

"Nếu không tăng giá, năm 2011 ngành điện sẽ lỗ tiếp 29,5 ngàn tỷ đồng sau khi đã bị lỗ tổng cộng 28 ngàn tỷ đồng trong năm 2010. Nền kinh tế sẽ không thể chịu đựng nổi số lỗ lớn như vậy. Ngoài ra, giá điện thấp khiến khó thu hút đầu tư, dẫn đến tình trạng thiếu điện, các ngành nghề tiếp tục sử dụng công nghệ lạc hậu, sử dụng điện lãng phí, không khuyến khích tiết kiệm điện", ông Vũ Văn Ninh cho hay.

Ảnh: chinhphu.vn

Các hộ thuộc diện hộ nghèo theo tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định được hỗ trợ giá điện cho 50 kWh/tháng, mức hỗ trợ là 30.000 đồng/hộ/tháng. Kinh phí hỗ trợ giá điện cho các hộ nghèo lấy từ tiền bán điện.

Khung giá cho điện sinh hoạt tại những khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo chưa nối lưới điện quốc gia gồm giá trần và giá sàn, trong đó giá sàn bằng 1,5 lần giá bán điện bình quân năm, giá trần bằng 2,5 lần giá bán điện bình quân năm.

Tương tự, đối với xăng dầu, Bộ Tài chính đã quyết định cho phép các doanh nghiệp đầu mối được tăng giá xăng 2.900 đồng/lít, lên mức 19.300 đồng/lít kể từ 10 giờ sáng nay (24/2).

Theo Bộ trưởng Ninh, mức tăng kể trên cũng chưa thể cắt lỗ cho các doanh nghiệp, khi mà giá xăng dầu trên thị trường thế giới đang đà tăng mạnh. Riêng trong năm 2010, tổng lỗ do không điều chỉnh giá xăng dầu theo thị trường thế giới đã lên đến khoảng 16,4 ngàn tỷ đồng.

Cần kiểm soát thật chặt về giá

Kết luận Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định nhiệm vụ trọng tâm hiện nay của cả nước là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được sản xuất, được an sinh xã hội.

Giải pháp được người đứng đầu Chính phủ lưu ý:

Một là, phải thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; phải kiểm soát được tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20%, đồng thời dành tín dụng ưu tiên cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ và đầu tư cho các lĩnh vực thiết yếu khác trên nguyên tắc điều hành minh bạch, cụ thể. Cùng với việc kiềm chế lạm phát, phải giảm dần lãi suất theo hướng hợp lý, coi lãi suất là một trong những công cụ kiềm chế lạm phát.

Hai là, điều hành tỷ giá ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, Chính phủ thông qua Ngân hàng Nhà nước sẽ huy động và sử dụng các nguồn lực để kiểm soát bằng được tỷ giá theo quy định, không để thả nổi tỷ giá; không để cho thị trường chợ đen chi phối.

"Chúng ta hoàn toàn có thể làm được việc này và trên thực tế năm 2008 là năm cực kỳ khó khăn song chúng ta đã làm được việc này. Dứt khoát các Tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty nhà nước phải bán tất cả các ngoại tệ có được cho ngân hàng nhà nước, không găm ngoại tệ gây khó khăn cho đất nước; khi có nhu cầu, các ngân hàng phải đảm bảo bán cho doanh nghiệp theo đúng giá quy định", Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lưu ý.

Bên cạnh đó, không ứng vốn ngân sách nhà nước cho các dự án kéo dài, không cấp bách để bổ sung cho các dự án ưu tiên hoàn thành trong năm 2011.

Ba là, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, với mức giá nông sản tăng cao, đây là thời điểm tốt để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Hạn chế tối đa các mặt hàng nhập khẩu trong nước có thể sản xuất được, coi giảm nhập siêu cũng làm một trong những giải pháp giảm căng thẳng tỷ giá.

Khẳng định việc điều chỉnh tăng giá điện, xăng dầu là việc không thể không làm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị các Bộ, ngành chức năng thực hiện việc bù hỗ trợ giá điện cho các hộ nghèo theo đúng đối tượng, công khai, minh bạch.

Người đứng đầu Chính phủ cũng đề nghị, các địa phương cần làm tốt công tác kiểm soát giá, không để đầu cơ đẩy giá lên cao nhất là với một số mặt hàng thiết yếu như gạo, lương thực, xăng dầu, sữa... Đi đôi với đó là việc chỉ đạo các cơ quan chức năng của đại phương thực hiện tốt chính công tác quản lý ngoại hối, thị trường vàng.

Cần thay đổi tư duy về chiến lược

Chưa bao giờ hai từ “chiến lược” được các doanh nghiệp Việt Nam nhắc đến nhiều như thời gian gần đây. Nào là “chiến lược phát triển”, “chiến lược kinh doanh”, “chiến lược marketing”, “chiến lược nhân sự”...

Và tất cả những chiến lược này, tựu trung đều phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, trên thực tế, để có thể nhận thức đúng về chiến lược, cần có sự thay đổi về tư duy, mà trước hết là tư duy của người đứng đầu doanh nghiệp.

Chiến lược quyết định mô hình và cơ cấu tổ chức

Sự khác nhau cơ bản trong chiến lược của các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp Việt Nam nằm ở bốn khía cạnh chính: nhận thức về khái niệm chiến lược, cách thức lập chiến lược, cách thức triển khai chiến lược, cách thức kiểm soát và đánh giá chiến lược.

Bất kỳ mô hình hay cơ cấu tổ chức nào ra đời cũng nhằm phục vụ một chiến lược nào đó. Chiến lược là tiền đề, là thứ không thể thiếu đối với mô hình hoạt động và cấu trúc của tổ chức. Chiến lược công ty quyết định mô hình và cơ cấu tổ chức của công ty (thường là công ty đa ngành), chiến lược kinh doanh quyết định mô hình và cơ cấu của một đơn vị kinh doanh (hay công ty kinh doanh đơn ngành).

Các tập đoàn, công ty đa quốc gia không bao giờ thiết kế một mô hình hay cấu trúc ổn định khi chưa lập được chiến lược công ty, chiến lược kinh doanh cụ thể.

Trong khi đó, không ít doanh nghiệp Việt Nam lại tư duy theo hướng ngược lại. Họ mày mò, xây dựng mô hình, cơ cấu tổ chức, và liên tục thay đổi tổ chức, nhân sự trong khi chưa hề định hình một chiến lược rõ ràng nào.

Thậm chí, có doanh nghiệp còn xem chiến lược là sản phẩm của mô hình và cơ cấu tổ chức, chiến lược được sinh ra để phục vụ cho mô hình và cơ cấu hiện hữu.

Từ nhận thức này, doanh nghiệp cứ loay hoay vẽ tới vẽ lui sơ đồ tổ chức, tách - nhập - giải thể, thêm - bớt phòng ban, thay đổi nhân sự... Và, sự bất ổn tổ chức kéo theo hàng loạt bất ổn khác trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Cần phân biệt hai khái niệm chiến lược (strategy) và chiến thuật (tactic). Cùng là sự lựa chọn cách thức, con đường (way) kinh doanh, nhưng chiến lược hướng đến những mục tiêu dài hạn (long - term objective) trong năm, mười năm; trong khi chiến thuật chỉ là những giải pháp ngắn hạn (short - term objective) thực hiện trong vài tháng đến một năm.

Chiến lược thường mang tính chủ động (proactive) - vạch ra một con đường đi chính, xuyên suốt; trong khi chiến thuật thường mang tính đối phó (reactive), ứng biến với những tình huống trên đường đi trong khi vẫn giữ nguyên hướng đi và luôn bám vào trục đường đã định.

Chiến lược thường đòi hỏi việc sử dụng nguồn lực lớn và dài hơi, trong khi chiến thuật chỉ cần sử dụng nguồn lực nhỏ trong một giai đoạn ngắn. Chiến lược, nếu thành công, sẽ mang lại kết quả lớn, còn nếu thất bại thì hậu quả cũng khôn lường; trong khi đó, chiến thuật thường mang lại kết quả nhỏ, hậu quả nhỏ...

Từ nhận thức về khái niệm dẫn đến nhận thức về vai trò. Các công ty nước ngoài xem chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, là mối quan tâm hàng đầu, định hướng cho mọi hoạt động kinh doanh.

Tương tự khi người đang đứng giữa rừng, cần phải xác định hướng đi cho đúng trước khi bắt đầu đi, nếu không, sẽ không thể thoát ra khỏi rừng, thậm chí còn có thể bị lạc sâu hơn.

Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp Việt Nam không mấy coi trọng chiến lược, thường tiện đâu làm đấy, thấy có lời thì kinh doanh, thấy sản phẩm nào bán được thì sản xuất...

Điều này cũng giống như người bị lạc mà không quan tâm đến việc xác định hướng đi, cứ thấy chỗ nào có đường là đi, vì vậy có khi đi loanh quanh mãi lại quay về chỗ cũ hoặc ngày càng đi lạc sâu hơn.

Từ mức độ coi trọng khác nhau dẫn đến cách thức làm chiến lược giữa công ty nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam cũng khác nhau. Công ty nước ngoài xem chiến lược là sản phẩm của cả đội ngũ quản trị viên cấp cao, vì vậy họ thường huy động trí tuệ tập thể và dành nhiều thời gian, công sức cho việc hoạch định chiến lược.

Một dự án hoạch định chiến lược có thể kéo dài trong vài tuần, thậm chí vài tháng, với sự tham gia của nhiều người, từ những nhân viên cấp thấp đi thu thập và cung cấp thông tin, đến các quản lý cấp trung phân tích dữ liệu, và quản trị viên cấp cao thảo luận, tranh biện các kết quả phân tích để lựa chọn chiến lược.

Những cuộc họp bàn về chiến lược có thể được tổ chức ở nước ngoài hoặc ở một khách sạn, resort nào đó, nơi tách biệt với công việc thường ngày. Và lẽ đương nhiên, không thể bỏ qua việc sử dụng những công cụ phân tích chiến lược chuyên nghiệp, bài bản. Trong khi đó, chiến lược của doanh nghiệp Việt Nam thường do một mình người chủ doanh nghiệp nghĩ ra.

Không huy động trí tuệ tập thể, không thu thập đầy đủ thông tin, không sử dụng các công cụ phân tích, người chủ doanh nghiệp ra các quyết định chiến lược chỉ dựa vào cảm nhận của riêng mình.

Đó là lý do doanh nghiệp Việt Nam thường thành công và phát triển rất nhanh lúc còn ở quy mô nhỏ, nhưng giậm chân tại chỗ hoặc thụt lùi khi mở rộng quy mô hoạt động.

Ở quy mô nhỏ, hoạt động kinh doanh đơn giản, lượng thông tin ít, mức độ cạnh tranh chưa cao, người chủ doanh nghiệp, với tố chất và kinh nghiệm, có thể bất chợt đưa ra những quyết định đúng đắn.

Nhưng khi quy mô doanh nghiệp ở tầm cỡ lớn hơn, lượng thông tin nhiều, môi trường kinh doanh phức tạp, thiếu các công cụ phân tích, thiếu sự bàn bạc thấu đáo... thì một người khó có thể tính toán hết mọi tình huống để đưa ra quyết định đúng.

Những quyết định chiến lược được đưa ra vội vàng, thiếu phân tích, thiếu sự thảo luận, đóng góp của đội ngũ quản trị viên cấp cao, nếu không mắc sai lầm thì cũng rất khó triển khai thực hiện.

Hướng đi quan trọng hơn tốc độ

Các công ty nước ngoài triển khai chiến lược bằng những kế hoạch tổng thể và chương trình hành động cụ thể.

Các kế hoạch, chương trình này, một mặt xác định các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn, mặt khác còn thể hiện đầy đủ những hạng mục công việc phải làm, tiêu chí đánh giá, người chịu trách nhiệm chính, người hỗ trợ, ngân sách, các nguồn lực cần thiết khác, và các mốc thời gian bắt đầu, kết thúc.

Các kế hoạch và chương trình này được thảo luận, bàn bạc kỹ trước khi thống nhất để đưa vào thực hiện. Nhờ đó, việc chuẩn bị về nhân lực và vật lực được tính toán kỹ, việc phối hợp triển khai được nhịp nhàng.

Trong khi đó, chiến lược của doanh nghiệp Việt nhiều khi được triển khai chỉ bằng một mệnh lệnh từ chủ doanh nghiệp; các phòng ban, công đoạn không nắm được công việc và tiến độ thực hiện của nhau nên mạnh ai nấy làm, thậm chí những người triển khai công việc không biết ai là người chịu trách nhiệm chính...

Với cách này, chiến lược sẽ khó trở thành hiện thực. Từ các mục tiêu được thiết lập cụ thể cho từng giai đoạn, cộng với các kế hoạch, chương trình hành động chi tiết, các công ty nước ngoài có thể theo dõi, đánh giá và kiểm soát việc thực hiện chiến lược dễ dàng.

Những buổi họp định kỳ để đánh giá kết quả thực hiện cũng như giải quyết các vướng mắc, khó khăn thường xuyên được tổ chức. Tại các cuộc họp đó, các thành viên tham gia sẽ đưa ra thảo luận, tranh biện, đánh giá tiến độ, chất lượng hoàn thành các hạng mục công việc và cùng quyết định các giải pháp tháo gỡ khó khăn, nếu có.

Nhờ vậy, việc thực hiện chiến lược được kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo đi đúng định hướng và kế hoạch vạch ra từ đầu.

Nhận thức về chiến lược và tầm quan trọng của nó chưa đúng là thực trạng khá phổ biến trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Sự thành công và phát triển quá nhanh của một số doanh nghiệp cũng làm cho người chủ doanh nghiệp trở nên chủ quan.

Tuy vậy, khi bước vào cuộc chơi lớn hơn, có nhiều đối thủ hơn, cách thức tư duy đơn giản sẽ khó phát huy tác dụng, nếu không muốn nói là sẽ rất nguy hiểm.

Một nước cờ sai có thể dẫn đến thua cả ván cờ. Một chiến lược sai có thể đưa một doanh nghiệp đang mạnh rơi vào hoàn cảnh khó khăn, thậm chí đứng trên bờ vực phá sản. Ai cũng hiểu, đi đúng hướng quan trọng hơn là đi nhanh.

Tiếc thay, vẫn chưa nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan tâm thỏa đáng đến vấn đề chiến lược phát triển công ty, nên mục tiêu phát triển bền vững vẫn là cái đích ở xa...


TS NGUYỄN HỮU LONG

Chiêu mộ nhân tài từ công ty đối thủ

Nhìn vào tập thể nhân viên của công ty đối thủ và thấy một viên ngọc sáng, bạn muốn nó thuộc về mình? Sau đây là cách chiêu mộ nhân tài về làm cho doanh nghiệp mình.

Mời các bạn theo dõi bài "Chiêu mộ nhân tài từ công ty đối thủ" do Kim Quy trình bày.

Không giống với sinh viên mới ra trường hay người tìm việc bất kỳ, nhân viên của công ty đối thủ sẽ hiểu biết về ngành kinh doanh, hoạt động doanh nghiệp, khách hàng, và có thể đem về kho kiến thức mới vô cùng giá trị. Vậy nên, doanh nhân thường sáng mắt khi cầm đơn xin việc của người từng làm cho công ty đối thủ. Tuy nhiên, dù muốn có thêm nhân tài, chẳng ai mong tạo ra cuộc chiến giành người đẫm máu. Vậy nên, “câu” người từ công ty đối thủ đỏi hỏi sự cẩn trọng và khéo léo ở mức độ cao, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ.

Sau đây là vài lưu ý:

Tiếp cận tế nhị

“Câu” người từ công ty đối thủ đỏi hỏi sự cẩn trọng và khéo léo ở mức độ cao, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhỏ.
Nếu có đủ tiền thì để tránh phiền phức, bạn hãy nhờ một bên thứ ba tiếp cận ứng cử viên có triển vọng của đối thủ và đề nghị “một cơ hội trải nghiệm mới”.

Nếu không có chi phí, thì bạn phải tự tay thực hiện một cách khéo léo. Đầu tiên, dùng các công cụ tuyển dụng và mạng lưới việc làm rộng khắp để phát tin tuyển người. Rồi khi đến dự những buổi họp thương mại hay diễn đàn chuyên ngành, bạn đích thân tiếp cận ứng cử viên tiềm năng để đưa ra đề nghị. Hãy lưu ý là nếu bạn quá hung hăng lôi kéo thì đối phương có thể hoảng sợ, bỏ chạy.

Theo chuyên gia, nếu doanh nghiệp của bạn không có bất cứ quan hệ gì với doanh nghiệp đang sở hữu người tài kia, thì bạn có thể mạnh dạn đề nghị. Nhưng nếu cả hai cùng làm trong một ngành nhỏ, thuộc thị trường nhỏ chỉ có vài doanh nghiệp nhỏ cạnh tranh lẫn nhau, thì bạn phải cân nhắc kỹ hệ quả khi cố tình “lôi kéo” người. Phải biết khéo léo để thêm người tài chứ không tăng kẻ thù.

Nhìn trước khi nhảy

Điều quan trọng nhất cần cân nhắc là liệu ứng cử viên mục tiêu đó xứng đáng để bạn có được bằng bất cứ giá nào? Phải bảo đảm rằng mình đang tuyển một người tài đích thực chứ không phải một cái đơn xin việc dày thành tích… Sai lầm của hầu hết công ty nhỏ là cứ nhìn vào bảng liệt kê những công ty người đó từng làm, nghe những thành tích người đó tự kể, rồi tin rằng: “Thật tuyệt! Phải có được người này!”.

Để bảo đảm đúng là người mình cần, bạn phải xem kỹ quá trình học tập, làm việc bấy lâu; gọi điện hoặc gửi e-mail hỏi ý kiến từ “sếp” cũ, thầy cũ, đồng nghiệp cũ của ứng cử viên… Ngoài ra, còn phải xem người này có phù hợp với văn hóa công ty mình. Khác biệt văn hóa doanh nghiệp thường xuất hiện cùng lúc với sự khác biệt quy mô và vị trí địa lý của công ty. Nếu người bạn muốn thuê hiện đang sống ở vùng miền xa và vốn không có mối dây liên hệ nào với công ty của bạn, thì họ rất khó thích nghi.

Đó là lý do mà các doanh nghiệp đừng chỉ nhìn vào bảng thành tích của ứng cử viên, mà hãy chú ý nhiều đến những người địa phương giàu nhiệt huyết. Họ sẽ dễ dàng hòa nhập môi trường làm việc và văn hóa doanh nghiệp. Với nhiệt huyết, cộng thêm chút thời gian, họ sẽ nhanh chóng bắt nhịp để cống hiến có hiệu quả.

Dè chừng rắc rối pháp luật

Nếu đã xác định đúng đối tượng mình cần và muốn chính thức đề nghị tuyển dụng, điều tiếp theo bạn cần quan tâm là tình trạng hợp đồng của đối tượng với công ty anh ta đang làm việc. Và để tránh phiền phức pháp luật về sau này, bạn hãy thuê luật sư chuyên về thuê mướn nhân sự tư vấn.

Lời đề nghị hấp dẫn

Ứng cử viên đó thật hoàn hảo rồi, làm thế nào người đó chịu rời công ty cũ để qua công ty mình? Bạn cần vẽ ra một cơ hội lớn đầy sức hút. Hãy nhớ rằng không chỉ là vấn đề tiền bạc. Hầu hết mọi người hứng thú và bị kích thích bởi những thứ họ không thể có ở công ty cũ và công việc cũ, như là sự được thừa nhận, cơ hội, sự cách tân, sự sôi động, quyền lãnh đạo và tự do sáng tạo…

Quay đầu nhìn lại

Cuối cùng, hãy biết rằng đối thủ cũng có thể làm điều tương tự với mình. Trong lúc không ngừng tìm kiếm thêm người tài mới cho công ty, đừng quên chăm sóc những nhân viên “trong nhà” đang ngày đêm nỗ lực vì chúng ta. Hãy bảo đảm các ngôi sao trong công ty luôn được quan tâm, chăm sóc và trả lương xứng đáng.


Nguồn INC - dịch PHÙ DUNG

8 bước xây dựng tầm nhìn doanh nghiệp

Tại Ann Arbor, Michigan, Hoa Kỳ, Zingerman’s Delicatessan từ một công ty nhỏ thành lập năm 1982 đã trở thành Zingerman’s Community of Businesses với 8 cơ sở kinh doanh khác nhau (trong đó có một công ty tư vấn doanh nghiệp), 17 đối tác quản lý, 500 nhân viên, đạt doanh thu 37 triệu USD một năm trong 30 năm.

Mời các bạn theo dõi bài "8 bước xây dựng tầm nhìn doanh nghiệp" do Bảo Chiêu trình bày.

Nhà sáng lập Ari Weinzweig giải thích cách thức xây dựng tầm nhìn giúp đưa công ty đến tầm cỡ hiện tại.
Nhà sáng lập Ari Weinzweig giải thích cách thức xây dựng tầm nhìn (xây dựng kế hoạch chiến lược theo những mốc thời gian xác định trong tương lai) giúp đưa công ty đến tầm cỡ hiện tại.

Bước 1: Chọn chủ đề

Bạn xây dựng tầm nhìn cho toàn bộ công ty? Cho một bộ phận? Cho một ngày? Hay là cho đến khi bạn nghỉ hưu? Chúng tôi vẽ ra bức tranh kế hoạch đủ mọi chủ đề trên và còn hơn thế nữa.

Bước 2: Chọn khung thời gian

Tầm nhìn công ty sẽ kéo xa đến tận đâu? Không có câu trả lời chính xác. Nhưng theo nguyên tắc chung thì vượt ra ngoài khuôn khổ những vấn đề hiện tại, nhưng cũng không quá đà tới tương lai bất định.

Chúng tôi có bảng kế hoạch tầm nhìn cho toàn bộ tổ chức đến năm 2020. Hầu hết công ty chọn khoảng thời gian từ 2 đến 10 năm, và 5 năm là con số cơ bản điển hình.

Bước 3: Lập bảng thành tích

Lập danh sách các thành tựu trong quá khứ, những cống hiến đặc biệt của cá nhân, của đồng sự, các kỹ năng, kỹ thuật và nguồn lực.

Danh sách đó là cơ sở dữ liệu kinh nghiệm chất lượng cao, và còn là nguồn năng lượng dồi dào, kích thích sức mạnh tinh thần. Doanh nhân càng lạc quan thì khả năng hoạch định tầm nhìn càng tốt.

Bước 4: Viết bản nháp

Viết bản kế hoạch chiến lược và tầm nhìn là điều vô cùng quan trọng. Sau đây là vài bí quyết cơ bản: Viết cứ như thể kế hoạch này đã thành hiện thực. Viết ra mọi ý tưởng. Đừng ngại nó viễn vông, chỉ cần nó mới mẻ. Viết liên tục không nghỉ trong 15, 20 phút. Thể hiện đam mê trong từng câu, chữ, ý tưởng.

Bước 5: Xem lại bản nháp

Xem lại một lượt bản nháp từ đầu đến cuối. Đừng vội bôi xóa bất cứ chi tiết nào. Hãy tự trả lời những câu hỏi: “Bản kế hoạch tầm nhìn này có truyền cảm hứng cho người đọc?”, “Mình có phấn khởi khi đọc nó?”.

Đừng bao giờ lo ngại: “Sẽ bận rộn dài dài và lo toan mãi mãi đây”. Thay vào đó, hãy xác định số doanh thu đại diện cho sự thành công mà bạn nhắm đến. Mức độ bán hàng? Tăng lương nhân viên? Dự trữ? Điều kiện?...

Bước 6A, 6B, 6C: Chỉnh sửa bản nháp

Chỉnh sửa trên 4 lần thật kỹ để làm thành bản tầm nhìn và kế hoạch chiến lược hoàn hảo. Mất bao lâu không phải là vấn đề quan trọng, nhưng kế hoạch phải thoát ra khỏi tờ giấy để đi vào hiện thực mới có giá trị.

Bước 7: Xin giúp đỡ

Bây giờ là lúc tìm đến những người đáng tin và đáng kính. Bạn sẽ giới thiệu bản kế hoạch chiến lược và tầm nhìn này cho ai? Những người có kinh nghiệm, hiểu biết và chuyên ngành có liên quan. Họ sẽ lắng nghe rồi thảo luận những bước hành động thực tế cho công ty bạn sau này.

Bước 8: Chia sẻ tầm nhìn

Bước cuối cùng là chia sẻ tầm nhìn với tập thể những người sẽ thực hiện nó. Sẽ không tránh khỏi chuyện mọi người truy hỏi làm thế nào để thực hiện tầm nhìn đó. Đừng bận tâm, tầm nhìn là “cái gì” chứ không phải là “cách nào”. Hiện tại bạn chưa rõ mình làm cách nào, nhưng bạn đã biết tầm nhìn của mình là “cái gì”, và tương lai dần dần bạn sẽ tự khắc biết “cách nào”.


Nguồn INC - dịch HẢI ĐƯỜNG

Sunday, February 20, 2011

Biến động lãi suất, tỷ giá trong mắt doanh nghiệp Việt

Lãi suất tăng cao, tỷ giá vừa có điều chỉnh mạnh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ chịu tác động như thế nào?

Cần ổn định để còn biết đường tính toán

Bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Đầu tư phát triển Việt Nam

“Hệ thống ngân hàng sẽ khó huy động ngoại tệ nếu vẫn giữ quy định về tỷ giá như cũ. Rất may là có sự chỉ đạo kịp thời của Ngân hàng Nhà nước và sự thống nhất với Hiệp hội Ngân hàng nên đã có sự đồng thuận về giá huy động vốn đầu vào. Vào cuộc ngay nên có tác động rất tốt.

Vì sao nói câu chuyện ngân hàng vì ngân hàng cung cấp vốn cho nền kinh tế, doanh nghiệp giao dịch cũng qua hệ thống ngân hàng nếu trong trường hợp huy động vốn đầu vào 14%, rõ ràng nếu cộng thêm chi phí vài phần trăm của ngân hàng vào nữa thì vốn doanh nghiệp vay so với các nước ở mức độ cao, tác động nhất định đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các ngân hàng thẩm định cho vay cũng chặt chẽ hơn.

Việc điều chỉnh tỷ giá vừa rồi là đúng, vì thực chất tỷ giá chênh lệch giữ ngân hàng với thị trường tự do đã chênh khá lớn. Các doanh nghiệp xuất khẩu cũng rất lo ngại, bày tỏ lo ngại vì việc dùng USD như một chỉ số, nhập siêu chủ yếu từ Trung Quốc, tới hơn 10 tỷ USD trong khi đồng Nhân dân tệ giá trị như vậy nên có ý kiến lo rằng bị tăng giá kép, vì nhập nguyên liệu từ Trung Quốc về đắt hơn bình thường (vì đồng Nhân dân tệ của họ tăng giá hơn đồng USD trong khi VND lại sụt giảm so với USD) thì rõ ràng giá thành sản phẩm doanh nghiệp mình làm ra đắt, tác động đến sức mua.

Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp xuất nhập khẩu rất lo ngại. Năm nay chỉ tiêu xuất khẩu phải tăng hơn 10%, Quốc hội đã đặt chỉ tiêu rồi. Để thực sự hàng hóa Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới thì việc điều chỉnh tỷ giá, lãi suất phải hết sức thận trọng, đặc biệt là trong bối cảnh nhập siêu vẫn cao nên phải có bài toán thế nào đó để trợ giúp cho doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam để tăng sức cạnh tranh hàng hóa chúng ta lên. Đặc biệt là chúng ta nâng cao giá trị gia tăng hàng hóa của chúng ta thì việc có chính sách linh hoạt, hợp lý trong điều hành tỷ giá lãi suất rất quan trọng và cần thiết.

Về mức tăng 9,3% của tỷ giá, không gây sốc đâu. Vì nghe tỷ lệ phần trăm con số có vẻ to nhưng thực tế từ lâu trên thị trường đã điều chỉnh rồi. Quan trọng là sau khi chính sách đó được công bố, trên thị trường USD không vọt lên quá cao mà điều đó chứng tỏ chỉ có sự điều chỉnh nhất định, minh bạch được hoạt động ngân hàng, để ngân hàng thu hút được USD tiền gửi. Chính vì như thế cũng hy vọng nguồn USD người dân bán cho ngân hàng tốt hơn, giúp Nhà nước tăng cường dự trữ ngoại hối.

Tuy nhiên, cần có giải pháp đồng bộ để thực sự vốn vay lãi vay của doanh nghiệp giảm đi. Vì với khối doanh nghiệp sản xuất rất cần vốn vay hợp lý, còn tạo công việc cho người lao động. Bên cạnh khối dịch vụ, ngân hàng, tài chính cũng cần được tăng cường. Bên cạnh giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô thì Chính phủ và các bộ ngành cũng cần tập trung giải pháp cho vấn đề này. Nhưng vốn nền kinh tế nước ta yếu sẵn, lại có tác động như thế nữa. Kinh tế nước ta có độ mở lớn trong khi xuất khẩu chiếm 160% so với GDP, nên đó là bài toán không đơn giản, phải tháo gỡ từng bước.

Với doanh nghiệp, ai cũng phải vay vốn, ai cũng mong muốn lãi suất thấp, nhưng với múc vay trung bình tối thiểu 17% thì rất khó cho doanh nghiệp, và khi trả lãi ngân hàng, doanh nghiệp không có lãi, lãi phải đạt tối thiểu 20% mới có chút lãi. Nếu lãi cao doanh nghiệp không hoạt động được, ảnh hưởng tới cả nền kinh tế, ảnh hưởng đến công ăn việc làm cho người lao động.

Nhưng để giảm mặt bằng lãi suất xuống là cả bài toán tổng hợp. Cho nên cần có một gói giải pháp nhưng điều hành một cách cực kỳ linh hoạt vì diễn biến thay đổi hàng ngày, hàng tuần. Bên cạnh đó còn chịu tác động chi phí đẩy từ than, điện… Họ là nhà kinh doanh đầu tư thì cũng cần có lãi để tái đầu tư, nhưng nếu chúng ta làm một cách dồn dập thì khối sản xuất kinh doanh, dịch vụ cực kỳ khó khăn vì chi phí giá thành sẽ tăng cao, ảnh hưởng đến sức mua.

Về điều hành chính sách tiền tệ, các doanh nghiệp mong muốn có định hướng nhất định để tiên đoán được sự ổn định chính sách, để còn biết đường tính toán. Công tác dự báo và tạo dư luận, có định hướng chung cho các doanh nghiệp về hoạt động tài chính tiền tệ rõ hơn. Ví như chính sách tỷ giá cần điều hành linh hoạt nhưng không phải biến động lớn”.

Cơ hội để thanh lọc doanh nghiệp

Ông Trần Minh Hoàng, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Vinaland

“Đối với lĩnh vực bất động sản, một lĩnh vực phụ thuộc khá nhiều vào vốn ngân hàng thì việc lãi suất chưa tăng cao cũng đã khó rồi. Nay lãi suất cho vay tăng cao thì lại càng khiến cả thị trường khó khăn hơn. Tuy nhiên, theo tôi, trong thời điểm này do áp lực về vĩ mô, bắt buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát. Ngay cả việc điều chỉnh tỷ giá vừa qua cũng là một việc bất khả kháng vì mục tiêu vĩ mô.

Hiện nay, đối với các doanh nghiệp có dự án đang chuẩn bị triển khai thì ngay khi lãi suất chưa tăng cao thì họ đã phải dừng rồi, đã phải “cố thủ” rồi, vì khi lãi suất 16 -18% thì họ cũng đã rất khó khăn. Còn với những doanh nghiệp đang trong giai đoạn triển khai dang dở thì lại càng khó khăn hơn.

Đối với chúng tôi, trong bối cảnh này các dự án đều được dừng lại ở công tác chuẩn bị chứ không thể triển khai trong điều kiện lãi suất vay vốn cao. Còn với khách hàng thì họ cũng gặp khó khăn rất nhiều nếu như họ phải vay mượn nhiều để mua bán bất động sản.

Tuy nhiên, như đã nói ở trên, vì mục tiêu vĩ mô, kiềm chế lạm phát nên chúng ta phải tăng lãi suất, chấp nhận hạn chế tăng trưởng, giảm chi tiêu… Đồng thời, ở góc độ nào đấy, tăng lãi suất cũng là cơ hội để thanh lọc những doanh nghiệp không có năng lực, góp phần đưa thị trường phát triển ổn định và hiệu quả hơn.

Thị trường bất động sản có thể sẽ khó khăn trong nửa đầu năm nay, còn sau đó, nếu lạm phát được kiềm chế thì lãi suất sẽ giảm xuống và thị trường sẽ có cơ hội phục hồi”.

Sẽ phải xét lại các kế hoạch

Ông Đoàn Trọng Lý, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Chăn nuôi chế biến và Xuất nhập khẩu (Aprocimex)

“Doanh nghiệp chúng tôi chuyên nhập khẩu các loại nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nên nhu cầu sử dụng USD là thường xuyên. Tuy nhiên, với việc Ngân hàng Nhà nước công bố điều chỉnh tăng mạnh tỷ giá USD/VND từ cuối tuần trước nên ngay trong sáng nay (14/2), tôi đã phải tạm ngừng đàm phán với đối tác để hủy một đơn hàng với trị giá 200.000 USD như theo kế hoạch đã đề ra.

Bởi, nếu ký kết hợp đồng này thì không biết sắp tới Aprocimex sẽ phải mua USD ở thị trường tự do với giá bao nhiêu rồi bán cho ngân hàng với giá thấp để thực hiện thanh toán hợp đồng.

Hiện Aprocimex là một trong 12 doanh nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về thực hiện bình ổn giá thức ăn chăn nuôi trong nước. Trung bình mỗi năm chúng tôi cung cấp ra thị trường khoảng 200.000 tấn các loại thức ăn chăn nuôi và cần từ 35 - 40 triệu USD để nhập khẩu nguyên vật liệu, thế nhưng chúng tôi lại không được hưởng lợi gì từ chính sách tỷ giá cả.

Thực tế từ lâu rồi Aprocimex và phần lớn các doanh nghiệp khác đã chịu cảnh không mua được USD của ngân hàng mà phải mua ngoài thị trường tự do nhưng khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá tăng gần 10% thì chắc chắn giá USD trên thị trường tự do cũng tăng mạnh theo.

Với tỷ giá trên và giá USD trên thị trường tự do sẽ còn tăng nữa thì Aprocimex chắc chắn sẽ phải cắt giảm kế hoạch và lượng thức ăn chăn nuôi ra thị trường trong năm nay. Đó là một tin không vui với chúng tôi ngay từ đầu năm 2011 này.

Trong năm nay, Aprocimex còn có kế hoạch nâng cấp, mở rộng năng lực sản xuất nhà máy để tăng lượng cung ứng thức ăn chăn nuôi ra thị trường nhưng chắc kế hoạch này cũng sẽ phải xem xét lại. Nếu mở rộng mình sẽ phải vay, phải mua USD để nhập thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, trong khi bối cảnh tỷ giá USD như hiện nay thì sẽ chỉ càng làm khó thêm cho doanh nghiệp.

Với những doanh nghiệp nhập khẩu như Aprocimex, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ thì việc tỷ giả USD/VND tăng cao như vậy sẽ đẩy doanh nghiệp vào cảnh khó khăn hơn. Rất “khổn khổ” cho doanh nghiệp là cứ phải đi mua giá USD ở ngoài thị trường tự do rất cao rồi lại bán cho ngân hàng giá thấp để thanh toán hợp đồng, làm sao mà chúng tôi phát triển được”.

Như trên lưng cọp vậy

Ông Nguyễn Văn Đực, Phó giám đốc Công ty Địa ốc Đất Lành:

“Hiện nay thị trường bất động sản vẫn đang đóng băng do nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố lãi suất vay vốn cao. Do đó, việc lãi suất cho vay tăng cao như hiện nay lại khiến thị trường càng khó khăn thêm.

Ngay cả đối với khách hàng, người dân vốn vẫn phải cậy nhờ vào ngân hàng để mua nhà, đất, nay lãi suất lên tới 19 -20% thì tất nhiên họ sẽ không thực hiện được ước muốn mua nhà. Có thể nói đây như là việc đòn “bức tử” tiếp theo cho doanh nghiệp bất động sản cũng như toàn thị trường sau Nghị định 69. Với các doanh nghiệp thì giống như phóng lao thì phải theo lao hay như những người đang ở trên lưng cọp vậy.

Có thể ví việc lãi suất tăng cao như hiện nay đối với doanh nghiệp cũng giống như một người biết mớ rau có phun hóa chất tăng trưởng, ăn vào thì cũng phải vài năm sau mới chết, nhưng nếu không ăn thì lại bị chết đói ngay. Do đó không còn con đường nào khác là doanh nghiệp vẫn tiếp tục phải vay.

Chúng ta ai cũng biết, trong năm 2010, có rất nhiều doanh nghiệp thua lỗ, trong khi nhiều ngân hàng lãi rất cao. Nay các ngân hàng lại tiếp tục tăng lãi suất cho vay thì rõ ràng đây là một sự bất công cần phải có sự can thiệp của nhà nước, các cơ quan quản lý. Khi nền kinh tế đang trong giai đoạn khó khăn thì rất cần sự chung tay của tất cả các doanh nghiệp, trong đó có khối ngân hàng. Thậm chí, nhà nước có thể khống chế mức độ lãi của các ngân hàng để nền kinh tế có thể nhanh chóng vượt qua khó khăn.

Chúng ta cũng nên học tập Thái Lan, khi nền kinh tế bắt đầu thoát khỏi khủng hoảng, các lĩnh vực liên quan của họ tự ý thức hợp tác với nhau, mỗi ngành nghề, doanh nghiệp chịu thiệt một chút để cùng vượt khó. Chẳng hạn giá khách sạn giảm một chút, vận tải, hàng không, du lịch… cùng giảm nên du lịch của họ phục hồi nhanh chóng, thu hút lượng khách rất lớn.

Các doanh nghiệp bất động sản hiện nay rất khó khăn, có rất nhiều dự án đang “trùm mền”, khởi công cầm chừng do không có đầu ra. Bên cạnh đó, hiện nay thị trường đang cạnh tranh rất quyết liệt do nguồn cung rất lớn. Có nhiều doanh nghiệp xây xong móng chờ lãi suất hạ để triển khai tiếp, song không ngờ lãi suất lại ngày một tăng cao khiến cho họ đang đứng bên bờ vực phá sản.

Việc tăng lãi suất cho vay của các ngân hàng vào thời điểm này chẳng khác gì đánh một đòn chí tử vào các thị trường nói chung, trong đó có thị trường bất động sản. Do khó khăn trong vay vốn nên chắc chắn nhiều doanh nghiệp sẽ phải chậm tiến độ dự án, vi phạm hợp đồng với khách hàng, hoặc sẽ có nhiều doanh nghiệp phải bán tống bán tháo dự án của mình vì không có đủ vốn để triển khai tiếp.

Một kịch bản xấu cho thị trường bất động sản trong năm nay sẽ được nhiều người nghĩ đến nếu lãi suất cho vay cứ tiếp tục cao như hiện nay”.

Gắng tiết kiệm chi phí tối đa

Ông Bùi Văn Hùng, Phó tổng giám đốc phụ trách tài chính - Công ty Hyundai Thành Công (HTC)

“Như chúng ta đều biết, đồng tiền VND của chúng ta được Nhà nước quy định tỷ giá. Mỗi biến động của USD đều ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu nói chung và của HTC nói riêng. Việc đồng tiền Việt Nam được Nhà nước điều chỉnh giảm giá trị xuống 9,3% so với đồng USD sẽ có lợi cho các nhà xuất khẩu Việt Nam nhưng nhưng ngược lại sẽ gây khó khăn rất lớn với các đơn vị nhập khẩu là chủ yếu như HTC. Theo đó, Mỗi chiếc xe nhập về Việt Nam giờ đây sẽ phải cộng chi phí do điều chỉnh tỉ giá USD/VND khá lớn, có khi đến cả trăm triệu đồng.

Đây là một mức tăng lớn ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh toán của người tiêu dùng khi đưa ra quyết định mua xe. HTC chúng tôi sẽ cố gắng hết sức để tiết kiệm chi phí tối đa, đề nghị Nhà nước tháo gỡ khó khăn bằng việc cho giãn thời hạn nộp thuế,… để hạ giá thành nhằm đạt được kế hoạch kinh doanh năm 2011.

Sau khi có quyết định tăng tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước, Hyundai Thành Công cũng đã xem xét thay đổi giá bán phù hợp. Theo đó, những mẫu xe cụ thể như SantaFe có mức tăng từ 27- 47 triệu đồng, i30 CW có mức tăng 16 triệu đồng, Sonata tăng 23 triệu đồng… đây là mức tăng đã được chúng tôi cân nhắc rất kỹ đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà phân phối và người sử dụng. Thực tế mức tăng còn cao hơn khá nhiều”.

Tăng tỷ giá thì lợi xuất khẩu

Ông Nguyễn Tôn Quyền, Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest)

“Ngân hàng Nhà nước mới đây điều chỉnh tăng tỷ giá giữa USD và VND thêm 9,3% là một quyết định mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

Trước đây, khi xuất khẩu đồ gỗ thu về ngoại tệ, các doanh nghiệp đều phải bán lại cho Ngân hàng Nhà nước theo tỷ giá quy định. Nhưng khi cần ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu, các doanh nghiệp này lại phải mua ở các ngân hàng thương mại với mức chênh lệch có khi lên tới 3.000 đồng/1 USD so với giá niêm yết.

Thử hình dung, năm 2010 các doanh nghiệp đồ gỗ xuất khẩu thu về 3,4 tỷ USD, nhưng phải nhập khẩu khoảng 1 tỷ USD thì phần thua thiệt mà họ phải chịu do sự chênh lệch tỷ giá là không hề nhỏ.

Cũng vì có sự chênh lệch quá lớn giữa tỷ giá USD/VND do Ngân hàng Nhà nước quy định và tỷ giá trên thị trường tự do nên doanh nghiệp luôn phải trả thêm các khoản phí không chính thức khi muốn mua ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại ngoài mức giá niêm yết.

Quyết định này của Ngân hàng Nhà nước sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt sẽ khuyến khích các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, cơ quan quản lý tiền tệ cũng cần phải giữa tỷ giá này trong một khoảng thời gian tương đối dài để doanh nghiệp có thể chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó phải có cơ chế quản lý, giám sát để các ngân hàng thương mại phải thực hiện đúng theo quy định”.

Lạm phát, lãi suất và… sau điều chỉnh tỷ giá

Điểm mấu chốt của Việt Nam sau lần phá giá này là phải chấp nhận thắt lưng buộc bụng một thời gian để trả nợ và giữ ổn định kinh tế, tránh không để bị hạ điểm thêm nữa.

Phá giá sẽ làm gánh nặng nợ nước ngoài tăng thêm, đây là một trong những lý do chính nhiều nước cố gắng trì hoãn việc này. Tuy nhiên cần nhìn vấn đề này trên khía cạnh khác. TS Lê Hồng Giang đang làm việc tại quỹ Ngoại hối của công ty đầu tư Tactical Global Management, Úc trả lời phỏng vấn của SGTT.

Theo ông, phá giá tác động thế nào đến lạm phát?

Ngày 11.2, khi ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá, chênh lệch tỷ giá giữa VCB và thị trường tự do đã giảm xuống còn 2,44% so với hơn 9% trước đó. Nhưng sau ngày này, chênh lệch tỷ giá giữa hai khu vực ngân hàng và thị trường tự do lại lớn dần.

Ảnh hưởng của phá giá vào lạm phát khá phức tạp. Các nghiên cứu trong nhóm này (exchange rate pass through – ERPT) chỉ ra ba kênh tạo ra lạm phát gia tăng khi tỷ giá giảm.

Thứ nhất, giá hàng hóa nhập khẩu tăng ảnh hưởng trực tiếp vào mặt bằng giá trong nước. ERPT của hàng nhập khẩu thường khá cao và có độ trễ ngắn. Thứ hai, giá hàng hoá xuất khẩu trên thị trường nội địa cũng có thể tăng vì nhu cầu xuất khẩu tăng làm giảm cung cho thị trường nội địa. Thứ ba, tổng cầu cho hàng hoá sản xuất trong nước, bao gồm cả các hàng hoá chỉ sản xuất và tiêu dùng nội địa (non-tradable) tăng cũng tạo ra sức ép lên lạm phát.

Hầu hết các nghiên cứu định lượng ở các nước đều khẳng định sự hiện diện của ERPT vào CPI, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng chênh lệch khá nhiều giữa các nước. Một nghiên cứu định lượng cho ERPT ở Việt Nam cần phải được thực hiện.

Mối quan tâm hiện nay là liên hệ giữa phá giá và lãi suất. Nhận định của ông như thế nào?

Phá giá về bản chất có nhiều điểm tương đồng với chính sách tiền tệ nới lỏng, nghĩa là nó có tác động kích thích các hoạt động kinh tế trong nước. Bởi vậy, để trung hoà tác động tiền tệ của phá giá trong trường hợp rủi ro lạm phát gia tăng vì ERPT cao, ngân hàng trung ương cần thắt chặt tiền tệ.

Hơn nữa thắt chặt tiền tệ sau khi phá giá là một cách giúp đồng nội tệ không tiếp tục mất giá ít nhất trong ngắn hạn. Việc thắt chặt tiền tệ có tác động làm tổng tiết kiệm nội địa tăng, với điều kiện Chính phủ không gia tăng chi tiêu, do đó giúp cải thiện cán cân cung cầu ngoại tệ.

Trong bối cảnh lãi suất của Việt Nam đã tương đối cao như hiện nay, rất có thể ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ phải thắt chặt tiền tệ thông qua các biện pháp phi lãi suất như tăng dự trữ bắt buộc, tăng hệ số an toàn vốn (CAR), hay siết chặt trần tín dụng.

Nhiều người quan ngại phá giá sẽ làm gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài, thưa ông?

Phá giá sẽ làm gánh nặng nợ nước ngoài tăng thêm, đây là một trong những lý do chính nhiều nước cố gắng trì hoãn việc này. Tuy nhiên cần nhìn vấn đề này trên khía cạnh khác.

Thứ nhất nếu trì hoãn phá giá, gánh nặng nợ nước ngoài sẽ càng phình to và đến một lúc nào đó sẽ vỡ. Chấp nhận thắt lưng buộc bụng bây giờ để trả nợ hay đợi đến lúc vỡ nợ mới phá giá? Chọn lựa cách nào trong hai cách này là một quyết định không khó với một chính phủ có trách nhiệm.

Thứ hai, nếu phá giá để phục hồi lại cân bằng nền kinh tế thì gánh nặng nợ nước ngoài có thể được bù đắp phần nào bằng sự gia tăng hoạt động kinh tế trong nước và luồng vốn nước ngoài chảy vào. Về mặt nguyên tắc, nếu phá giá giúp cải thiện cán cân thương mại thì cả dự trữ ngoại tệ lẫn khả năng trả nợ nước ngoài của một nước sẽ được cải thiện, sẽ góp phần cải thiện xếp hạng tín nhiệm (credit rating).

Do đó điểm mấu chốt của Việt Nam sau lần phá giá này là phải chấp nhận thắt lưng buộc bụng một thời gian để trả nợ và giữ ổn định kinh tế, tránh không để bị hạ điểm thêm nữa.

Liệu lần phá giá này có giúp ta thu hút thêm nhiều đầu tư nước ngoài?

Phá giá là liều thuốc đắng mà Việt Nam phải uống vì đang bị bệnh. Giúp giảm gánh nặng chi tiêu cho người nghèo trong cơn bão này, đầu tư thêm vào các cơ sở giáo dục, y tế dịch vụ công... là cần thiết song song với cắt giảm chi tiêu công không hiệu quả.

Mối liên hệ này khá phức tạp. Về nguyên tắc nếu phá giá để đưa tỷ giá về mức bền vững thì nền kinh tế sẽ ổn định hơn dù trong ngắn hạn tốc độ tăng trưởng có thể bị ảnh hưởng. Trong trường hợp này đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng vì các nhà đầu tư được giải toả rủi ro tỷ giá trong tương lai. Tuy nhiên nếu phá giá không đủ mạnh và uy tín của ngân hàng Trung ương không cao thì các nhà đầu tư có thể vẫn ngần ngại.

Trong hoàn cảnh thiếu thốn số liệu và các nghiên cứu nghiêm túc như ở Việt Nam, việc phá giá chỉ có ý nghĩa “đánh tiếng” (signalling) với các nhà đầu tư. Trong lần phá giá vừa rồi, ngân hàng Nhà nước đã đưa ra hai tín hiệu rõ ràng: phá giá khá mạnh (9,3%) và chuyển sang chính sách điều hành tỷ giá mềm dẻo hơn. Cả hai tín hiệu này “đánh tiếng” cho các nhà đầu tư rằng ổn định vĩ mô sẽ được coi trọng. Một đợt thắt chặt tiền tệ mới (bằng chính sách lãi suất hoặc phi lãi suất) sẽ càng củng cố tín hiệu này.

Phá giá sẽ ảnh hưởng tới tầng lớp dân nghèo. Cần cân nhắc yếu tố tác động này như thế nào?

Hiển nhiên người nghèo không mua những hàng hoá nhập khẩu đắt tiền, nhưng giá xăng dầu tăng, giá điện nước tăng, và ngay cả giá các loại hàng tiêu dùng và thực phẩm rẻ tiền của Trung Quốc cũng tăng sẽ phần nào làm cuộc sống của tầng lớp dân nghèo khó khăn hơn.

Hơn nữa, nếu Chính phủ thực sự đặt mục tiêu tăng trưởng xuống thứ yếu, chính sách này sẽ gián tiếp làm giảm cơ hội việc làm và thu nhập của đa số người dân. Do vậy những biện pháp giúp đỡ người nghèo cần được đẩy mạnh.

Những khoản chi tiêu, đầu tư công không rõ hiệu quả cần cắt giảm hoặc trì hoãn để dồn tiền cho các chương trình trợ cấp cho dân nghèo. Đầu tư thêm vào các cơ sở giáo dục, y tế, dịch vụ công cũng là cách giúp giảm gánh nặng chi tiêu cho người dân nói chung và dân nghèo nói riêng.

Phá giá là liều thuốc đắng Việt Nam phải uống vì đang bị bệnh. Những người làm chính sách cần nhớ rằng tầng lớp dân nghèo không có lỗi gì cả khi tỷ giá và cán cân ngoại thương quá mất cân đối lâu nay. Bởi vậy phải đảm bảo ảnh hưởng của chính sách phá giá đối với họ là thấp nhất.

Thursday, February 17, 2011

Vé: Một kênh quảng cáo mới

Hàng triệu tờ vé số, vé xe được phát hành mỗi ngày tương đương với lượng đối tượng tiếp cận không hề nhỏ chính là tiềm năng phát triển cho hình thức quảng cáo trên vé.

Hình thức quảng cáo trên các loại vé xuất hiện tại Mỹ từ năm 1998 nhờ sự khai phá bằng ý tưởng đưa hình ảnh sản phẩm lên mặt sau vé gửi xe và các loại vé dịch vụ khác của “ông tổ” Christopher Gilliam (sáng lập Công ty AdverTickets chuyên về quảng cáo trên vé). Ở Việt Nam, dù đã được một số doanh nghiệp quan tâm áp dụng nhưng hình thức quảng cáo trên vé chưa thực sự phát triển.

Rẻ mà hiệu quả

Hàng triệu tờ vé số, vé xe được phát hành mỗi ngày tương đương với lượng đối tượng tiếp cận không hề nhỏ chính là tiềm năng phát triển cho hình thức quảng cáo trên vé.
“Các doanh nghiệp muốn tận dụng mọi không gian, phương thức quảng bá thương hiệu, sản phẩm của mình nhưng họ lại quên mất không gian nhỏ bé trên mỗi tờ vé, cách tiếp cận khách hàng nhanh mà chi phí lại rẻ”, anh Trần Đức Sự, tác giả ý tưởng quảng cáo trên vé số và các loại vé đã đoạt giải cuộc thi “Ý tưởng sáng tạo trẻ 2009” tại TP.HCM, cho biết.

Theo tính toán của anh, một tờ vé số có kích thước bề mặt trung bình 60 x 150 mm, tính ra diện tích khoảng 0,009 m2, thích hợp để chèn logo hoặc slogan, địa chỉ website của thương hiệu, nhãn hàng hơn là giới thiệu sản phẩm. Đối tượng có nhiều nhu cầu sử dụng kênh này là doanh nghiệp chuyên cung cấp hàng tiêu dùng, nhu yếu phẩm (bột giặt, dầu gội, nước giải khát) hay dịch vụ (mạng viễn thông, du lịch, ngân hàng). Đối tượng của quảng cáo trên vé là người lao động phổ thông, có thu nhập thấp cho nên lượng người cần tiếp cận là rất rộng. Bên cạnh đó, kênh này lại được tiến hành hằng ngày, lặp đi lặp lại nên ấn tượng để lại trong người tiêu dùng là khá mạnh.

Ông Hà Văn Tăng, Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam, cho rằng ưu điểm của phương thức quảng cáo trên vé là tiếp cận trực tiếp từng người rồi từ đó lan tỏa sang người khác. Tuy chỉ sử dụng một lần, nhưng số lượng vé lớn và số sơ-ri nhiều nên có thể sử dụng trong nhiều năm. Ngoài ra các phòng vé, đại lý vé những người bán vé số dạo đều rất đông, tính cơ động cao nên đây có thể được coi là một kênh phân phối rộng.

Để phương thức này đạt hiệu quả và dễ quản lý, anh Sự cho rằng cần thành lập các doanh nghiệp chuyên chịu trách nhiệm về quảng cáo trên vé đóng vai trò trung gian, cầu nối giữa công ty xổ số và doanh nghiệp có nhu cầu quảng bá. Cách này cũng giúp Nhà nước thu được một số tiền đáng kể bởi hiện không có quy định nào về việc cấm hoặc hạn chế quảng cáo trên các loại vé.

Theo một số liệu khảo sát của Công ty Nghiên cứu Thị trường TNS, tổng chi phí quảng cáo tại Việt Nam tăng trưởng từ 15-20%/năm. Và với sự phát triển nhanh của nền kinh tế Việt Nam, dự tính tổng số tiền dành cho quảng cáo có thể đạt mức 55.000 tỉ đồng vào năm 2020.

Khó thuyết phục doanh nghiệp

Ông Đỗ Kim Dũng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Đào tạo Quảng cáo Việt Nam
Ông Đỗ Kim Dũng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Đào tạo Quảng cáo Việt Nam, cho rằng để thực hiện được phương thức quảng cáo này, điều quan trọng là doanh nghiệp có nhu cầu phải xác định đối tượng mục tiêu và độ bao phủ của quảng cáo định thực hiện. Thứ 2, công ty quảng cáo phải kiểm soát được về mặt định lượng, tức số vé sẽ được bán ra. Nếu không có thông số cụ thể về lượng khách hàng thì công ty quảng cáo không thể đánh giá được tính hiệu quả và tất nhiên sẽ không dám thực hiện.

Mặt khác, mỗi khách hàng lại có một trạng thái tiêu dùng khác nhau. Chẳng hạn, khi đi du lịch thì họ không thích xem những quảng cáo nặng về tư duy. Vì vậy, quảng cáo trên vé xe cần tập trung vào dịch vụ giải trí, vui chơi.

Xét riêng về quảng cáo trên vé số, theo ông Dũng có thể phát huy hiệu quả mạnh đối với quảng cáo phi lợi nhuận, nhằm mục đích gia tăng sự nhận biết thương hiệu hoặc làm từ thiện. Chẳng hạn, nhãn hàng bột giặt Omo có thể thỏa thuận với công ty xổ số về việc chuyển một số tiền cho trẻ em nghèo, trong khi logo hay slogan của Omo sẽ xuất hiện trên mặt tờ vé số. Nhiều doanh nghiệp lớn sẽ hứng thú với hình thức này.

Trong tương lai, nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra nhiều nhu cầu cùng nhiều không gian hẹp để kiểm soát về tài chính. Lúc đó, chi phí cho quảng cáo đắt đỏ, những kênh nhỏ sẽ phù hợp với các nhà sản xuất vừa và nhỏ với ngân sách chi cho quảng cáo không nhiều. Ông Dũng đưa ra ví dụ, một doanh nghiệp mới ra một loại bút bi mới, chưa được nhiều người chọn lựa, công ty này muốn thị trường bao phủ địa bàn TP.HCM nhưng chi phí dành cho quảng cáo không nhiều, không thể lựa chọn các kênh truyền hình thì kênh quảng cáo trên vé sẽ tiện lợi hơn.

Ông Tăng, Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam, cũng đồng tình với quan điểm này. Theo ông, hàng hóa giá rẻ sẽ là đối tượng tốt nhất cho kênh quảng cáo này. Và loại vé có khả năng mang lại hiệu quả tốt nhất theo ông chính là vé máy bay, do thời gian giữ vé khá lâu, khách hàng lại là những người có thu nhập khá nên sức tiêu dùng cao.

Vì không đưa ra được con số thống kê cụ thể về hiệu quả sử dụng nên cho đến nay, quảng cáo trên vé chưa đủ sức hút đối với doanh nghiệp có nhu cầu. “Quảng cáo trên các loại vé có thể trở thành một loại hình quảng cáo mới nhưng chưa chắc có thể trở thành loại hình thịnh hành hay xu hướng trong tương lai”, ông Dũng nhận xét.


Nguồn NCĐT

Jim McCann và những hạt giống cho thành công

Kinh doanh đang nở rộ đối với hãng cung cấp hoa nổi tiếng tại Mỹ, 1-800Flowers.com, nhưng dường như từng đó là chưa đủ với người sáng lập viên kiêm chủ tịch của hãng, Jim McCann.

Jim McCann người sáng lập viên kiêm chủ tịch của chuỗi cửa hàng Flora Plenty
Khi bạn là chủ một doanh nghiệp nhỏ và đang phấn đấu để trở nên lớn hơn, cảm giác chán nản và thoái chí là rất dễ xảy đến - đặc biệt nếu bạn so sánh mình với các doanh nghiệp lớn hơn đang rất thành công. Nhưng việc nhớ rõ rằng hầu hết các doanh nghiệp lớn ngày nay đều bắt nguồn từ những hoạt động kinh doanh rất nhỏ sẽ vô cùng hữu ích cho tinh thần, cho suy nghĩ và cho việc hoạch định chiến lược của bạn.

Và với tinh thần đó, tất cả thành công đã đến với Jim McCann. Ông chính là người đã hình tượng hoá một ý tưởng bắt đầu từ lúc là một hạt giống cho đến khi thành một cây xum xuê.

Trên các quảng cáo truyền hình, McCann dường như trông giống một phát ngôn viên hơn là một người không e ngại nhúng tay vào những thách thức lớn nhất trong kinh doanh – nhưng đó chính xác là những gì McCann, 56 tuổi, làm mỗi ngày và kể từ khi khai trương của hàng hoa đầu tiên tại New York, Mỹ năm 1976. Trước đó, đây chỉ là một cửa hàng nhỏ có tên gọi là Flora Plenty.

Vậy khi mà hoạt động kinh doanh của bạn chỉ nhỏ như một hạt giống, làm thế nào bạn có thể trồng nó thành một chiếc cây lớn, đẹp đẽ và nở đầy hoa? McCann không tự thừa nhận một vài bí quyết nào đó, nhưng nhìn lại những ông đã làm, chúng ta sẽ thấy được không ít lời khuyên.

Trước tiên theo McCann, "Hãy sa thải bản thân bạn ngay, nhờ đó bạn có thể tuyển dụng những nhân viên thích hợp và tập trung làm những gì bạn có thể làm và nên làm". Khi khai trương cửa hàng hoa của mình, McCann đang điều hành một tổ chức phi từ thiện phi lợi nhuận dành cho các thanh thiếu niên vô gia cư, và ông thấy rằng gia đình sẽ gặp khó khăn về tài chính nếu ông tiếp tục theo đuổi công việc hiện tại.

Vì vậy, McCann đã thuê một vài người làm việc vào cửa hàng trong các ngày làm việc, và sau đó từ 9 giờ tối tới nửa đêm và trong các ngày cuối tuần, ông dành hết thời gian tại cửa hàng Flora Plenty.

McCann nhớ lại: "Vợ tôi gọi đó là quãng thời gian vắt kiệt sức lực. Nhưng cũng không quá tệ khi tôi không phải là người duy nhất tại cửa hàng". McCann nói về quãng thời gian buộc ông làm việc cả với các hệ thống và quy trình của kinh doanh, chứ không chỉ điều hành cửa hàng.

Theo McCann, rất thường xuyên, ông thấy nhiều chủ doanh nghiệp lao vào làm tốt nhất mọi công việc họ có thể làm, thay vì tạo ra một môi trường nơi mà những người khác có thể làm tốt hơn. Đó là một bài học rất quan trọng.

Rủi ro là một phần trong kinh doanh. Với McCann, việc tiếp tục đảm trách các công việc trong ngày tại tổ chức phi lợi nhuận và bắt đầu khởi sự một hoạt động kinh doanh khác sẽ giảm thiểu các rủi ro của ông. Nhưng sau 10 năm, khi McCann có khoảng 15 cửa hàng trong chuỗi thương hiệu cung cấp hoa Flora Plenty tại New York, ông đang tham gia vào một ván bài lớn hơn nhiều.

McCann cho biết đó là bước đi rủi ro nhất trong sự nghiệp kinh doanh của ông khi quyết định mua một cái tên 1-800 Flowers từ một chủ doanh nghiệp khác - người đã không thành công khi sở hữu con số này.

McCann thừa nhận: "Tôi thấy mình nợ nần đến 7 triệu USD, và không nhận ra rằng nọ thực sự là một giao dịch ngớ ngẩn. Nhưng tin tốt là người em trai của tôi Chris đã tham gia vào công ty. Chúng tôi đã trả hết nợ trong 5 năm sau đó, và dù đó có thể là một giao dịch ngớ ngẩn, nó cũng có thể là điều tốt nhất chúng tôi đã từng làm".

Điều này cho thấy đón nhận rủi ro là một phần của tăng trưởng kinh doanh, nhưng nó cần được tính toán kỹ lưỡng.

"Bạn có thể sáng tạo trong kinh doanh mà không cần có một chiếc xương sáng tạo trong cơ thể", McCann cho biết. Ông đưa ra một ví dụ cụ thể về vài năm trước đây, ông xây dựng một chương trình được gọi là Fresh Rewards, qua đó nếu khách hàng mua 9 bó hoa, bó thứ 10 sẽ miễn phí.

Song mọi người khi đó đã không mấy quan tâm tới bó hoa miễn phí. McCann còn nhớ nhiều người đã nói với ông rằng việc này sẽ không hiệu quả; không ai sẽ sử dụng tấm thẻ miễn phí. Đương nhiên, các kiểu phần thường này nhan nhản ở khắp mọi nơi.

1-800 Flowers: Những ngày ban đầu

Jim McCann sở hữu một tính cách chủ doanh nghiệp được truyền lại từ cha ông - người sở hữu một công việc kinh doanh chuyên về thầu phụ sơn. Cửa hàng đầu tiên của McCann, Flora Pkenty, đã rất thành công. Và cửa hàng thứ hai được mở ra sau 6 tháng.

"Chỉ có duy nhất tôi ở thời điểm ban đầu, nhưng cũng như bất cứ ai trong số chúng ta đã bắt đầu một công việc kinh doanh hoa, gia đình của chúng ta luôn ở trong kinh doanh. Thật khó để tìm kiếm nhân viên và mở cửa suốt 24/24 giờ vào những ngày lễ hội, vì vậy bạn phải nhờ cậy để nhân sự trong gia đình. Nếu chú Tony của tôi muốn có thời gian rảnh rỗi cho dịp lễ Tạ ơn, chú ấy biết rằng mình sẽ phải hoàn thành việc giao hoa từ ngày trước đó. Còn bằng không, chú ấy sẽ có một ngày lễ trên đường phố.

McCann chỉ là một phần của công việc kinh doanh. Mẹ của ông đảm trách công việc sổ sách kế toán và trả lương trong những ngày đầu của cửa hàng. Cha của ông trở thành người giao nhận hoa. Bốn em trai và em gái của McCann đều làm việc tại công ty, còn chị gái của ông Julie hiện vẫn làm việc cùng McCann cho đến ngày nay với tư cách chuyên gia tư vấn sáng tạo. Và em trai Chris giữ vị trí chủ tịch doanh nghiệp, nay chính thức được gọi là 1-800Flowers.com.

McCann đã có được ý tưởng mới sau khi ghé qua cửa hàng bánh rán Dunkin và mua một ít trà cùng một chiếc bánh rán với chiếc thẻ khách hàng trung thành của ông. Ông đã nghĩ: Việc này định hình nên hành vi của mình như thế nào?

McCann says cho biết: "Tôi sẽ nhìn vào các ngành nghề và lĩnh vực khác để xem có điều gì đó có thể thử cho hoạt động kinh doanh của tôi. Thật hữu ích khi bạn đọc ba hay bốn tạp chí của các ngành nghề khác nhau và nhìn vào các câu chuyện hay các vấn đề của họ. Sau đó là suy nghĩ: Làm thế nào mình có thể đưa điều đó vào thế giới của mình?". Hãy để một ai khác thực hiện các suy nghĩ sáng tạo cho bạn.

Sử dụng sự đa nghi như một chiến lược kinh doanh

McCann cho biết chiến lược này bắt nguồn từ một cuốn sách của Andy Grove, Chỉ có sự đa nghi sống sót (Only the Paranoid Survive). Nó lôi cuốn ông và người em trai Chris nhanh chóng trả hết khoản nợ và đầu tư vào xây dựng một trang web khi internet bắt đầu trở nên phổ biến.

Theo McCann thì việc các nhà quản lý kinh doanh duy trì sự đa nghi là một điều tốt. McCann đề cập tới việc gần đây ông đã phải huỷ bỏ một vài cuộc họp bàn và sử dụng thời gian đó để tái tập trung vào bản danh sách bị bỏ ngỏ trước đây liên quan tới các dự án và kế hoạch công nghệ cho công ty.

Nhắc tới yếu tố công nghệ di động sẽ là bước kế tiếp, McCann nói: "Tôi cảm thấy như chúng ta thực sự đang làm những gì chúng ta đã làm hồi đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Chúng ta ở trong kinh doanh để giúp đỡ mọi người thể hiện bản thân họ và kết nối với nhau, và tôi làm điều đó với những bông hoa cùng các món quà tặng khác đầy chiều sâu. Vì vậy, nếu tôi có thể giúp đỡ họ nhiều hơn với công nghệ di động một cách thường xuyên trên cơ sở những ý tưởng thấu đáo, điều đó sẽ tốt hơn cho mọi người và cũng tốt cho cả tôi trên cương vị một người bán hoa."


Nguồn bwportal.com.vn

Sunday, February 13, 2011

Lựa chọn hình thức doanh nghiệp để bắt đầu kinh doanh

Lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu kinh doanh

Việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.

Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình doanh nghiệp là: (i) uy tín doanh nghiệp do thói quen tiêu dùng; (ii) khả năng huy động vốn; (iii) rủi ro đầu tư; (iv) tính phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp; (v) tổ chức quản lý doanh nghiệp.

Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được thành lập hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.

Luật về tổ chức và thành lập doanh nghiệp ở Việt nam hiện có Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, luật Hợp tác xã, luật Các tổ chức tín dụng, luật Đầu tư nước ngoài. Theo đó, Doanh nghiệp được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau. Mỗi loại hình doanh nghiệp có đặc trưng và từ đó tạo nên những hạn chế hay lợi thế của doanh nghiệp.

Vì vậy việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Về cơ bản, những sự khác biệt tạo ra bởi loại hình doanh nghiệp là: (i) uy tín doanh nghiệp do thói quen tiêu dùng; (ii) khả năng huy động vốn; (iii) rủi ro đầu tư; (iv) tính phức tạp của thủ tục và các chi phí thành lập doanh nghiệp; (v) tổ chức quản lý doanh nghiệp.

Doanh nghiệp tư nhân

Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp tư nhân là một cá nhân. Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.

Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp, thì chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh tư nhân cao, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư vào doanh nghiệp.

Công ty hợp danh

Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: (i) Phải có ít nhất hai thành viên hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn; (i) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; (i) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không có tư cách pháp nhân và không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn.

Thành viên hợp danh có quyền quản lý công ty; tiến hành các hoạt động kinh doanh nhân danh công ty; cùng liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định tại Điều lệ công ty; không được tham gia quản lý công ty và hoạt động kinh doanh nhân danh công ty. Các thành viên hợp danh có quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý công ty.

Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau. Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao.

Loại hình công ty hợp danh mới chỉ được quy định trong Luật doanh nghiệp năm 2000 nên trên thực tế loại hình doanh nghiệp này chưa phổ biến.

Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên

Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên tối thiểu là hai và tối đa không vượt quá năm mươi. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn.

Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên phải có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc. Công ty trách nhiệm hữu hạn có trên mười một thành viên phải có Ban kiểm soát.

Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến nhất ở Việt nam hiện nay. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn đem lại cho nhà đầu tư nhiều lợi thế như: (i) do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ trách nhiệm về các hoạt động của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn; (ii) số lượng thành viên công ty trách nhiệm không nhiều và các thành viên thường là người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp; (iii) Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty. Tuy nhiên, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có những hạn chế nhất định như: (i) do chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác, bạn hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng; (ii) công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh; (iii) việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn chế do không có quyền phát hành cổ phiếu.

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một hình thức đặc biệt của công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu; chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp.

Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu.

Chủ sở hữu công ty không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty. Chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận của công ty khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.

Tùy thuộc quy mô và ngành, nghề kinh doanh, cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bao gồm: Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Chủ tịch công ty và Giám đốc.

Nhìn chung, công ty trách nhiệm hữu hạn có đầy đủ các đặc thù của công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên. Điểm khác biệt duy nhất giữa công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn có ít nhất hai thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chỉ có một thành viên duy nhất và thành viên nàyphải là một tổ chức có tư cách pháp nhân.

Lợi thế của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là chủ sở hữu công ty có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của công ty. Tuy nhiên, loại hình công ty này cũng có hạn chế là các cá nhân không được phép thành lập loại hình công ty này, chỉ có một số chủ thể có tư cách pháp nhân như các tổ chức chính trị xã hội, công ty cổ phần, công ty nhà nước… mới được thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Công ty nhà nước

Công ty nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp Nhà Nước. Công ty nhà nước được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước.
Công ty nhà nước được thành lập chủ yếu ở những ngành, lĩnh vực cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu cho xã hội; ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế, đòi hỏi đầu tư lớn; ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao; hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà các thành phần kinh tế khác không đầu tư.

Người có thẩm quyền ra quyết định thành lập mới công ty nhà nước là Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Riêng đối với việc quyết định thành lập mới công ty nhà nước đặc biệt quan trọng, chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt, làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
Công ty nhà nước có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, công ty mới được tiếp nhận vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn để đầu tư, xây dựng doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh; công ty được kinh doanh những ngành, nghề có điều kiện khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh ngành, nghề có điều kiện hoặc có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Công ty nhà nước được tổ chức quản lý theo mô hình có hoặc không có Hội đồng quản trị. Các tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập sau đây có Hội đồng quản trị: (i) Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; (ii) Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước; (iii) Công ty nhà nước độc lập có quy mô vốn lớn giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác.

Công ty cổ phần

Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: (i)Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; (ii)Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; (iii)Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết; (iv)Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.

Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.

Công ty cổ phần phải có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban kiểm soát.

Lợi thế của công ty cổ phần là: (i) chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao; (ii) khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các lịch vực, ngành nghề; (ii) cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp vốn vào công ty; (iv) khả năng huy động vốn của công ty cổ phầnrất cao thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần; (v) việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.

Bên cạnh những lợi thế nêu trên, loại hình công ty cổ phần cũng có những hạn chế nhất định như: (i) việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích; (ii) Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.

Hợp tác xã

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật hợp tác xã để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.

Hoạt động kinh doanh dưới hình thức hợp tác xã có nhiều lợi thế như: (i) có thể thu hút được đông đảo người lao động tham gia; (ii) việc quản lý hợp tác xã thực hiện trên nguyên tắc dân chủ và bình đẳng nên mọi xã viên đều bình đẳng trong việc tham gia quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động của hợp tác xã không phân biệt nhiều vốn hay ít vốn; (iii) các xã viên tham gia hợp tác xã chỉ chịu trách nhiệm trước các hoạt động của hợp tác xã trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh theo hình thức hợp tác xã cũng có những hạn chế nhất định, như không khuyến khích được người nhiều vốn, nhiều kinh nghiệm quản lý, kinh doanh tham gia hợp tác xã do nguyên tắc chia lợi nhuận kết hợp lợi ích của xã viên với sự phát triển của hợp tác xã; việc quản lý hợp tác xã phức tạp do số lượng xã viên đông; Sở hữu manh mún của các xã viên đối tài sản của mình làm hạn chế các quyết định của Hợp tác xã.

Doanh nghiệp liên doanh

Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn cam kết góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư.

Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bàn khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án quy có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Tỷ lệ góp vốn của bên hoặc các bên liên doanh nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Căn cứ vào lĩnh vực kinh doanh, công nghệ, thị trường, hiệu quả kinh doanh và các lợi ích kinh tế - xã hội khác của dự án, Cơ quan cấp giấy phép đầu tư có thể xem xét cho phép bên liên doanh nước ngoài có tỷ lệ góp vốn thấp hơn, nhưng không dưới 20% vốn pháp định.

Đặc điểm nổi bật của doanh nghiệp liên doanh là có sự phối hợp cùng góp vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt nam. Tỷ lệ góp vốn của mỗi bên sẽ quyết định tới mức độ tham gia quản lý doanh nghiệp, tỷ lệ lợi nhuận được hưởng cũng như rủi ro mỗi bên tham gia liên doanh phải gánh chịu.
Doanh nghiệp liên doanh là hình thức doanh nghiệp thực sự đem lại nhiều lợi thế cho cả nhà đầu tư việt nam và nhà đầu tư nước ngoài.

Đối với các nhà đầu tư việt nam, khi tham gia doanh nghiệp liên doanh, ngoài việc tượng phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp, nhà đầu tư việt nam còn có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện đại, phong cách và trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. đối với bên nước ngoài, lợi thế được hưởng là được đảm bảo khả năng thành công cao hơn do môi trường kinh doanh, pháp lý hoàn toàn xa lạ nêu không có bên việt nam thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, hình thức doanh nghiệp liên doanh cũng có sự bất lợi là có sự ràng buộc chặt chẽ trong một pháp nhân chung giữa các bên hoàn toàn khác nhau không chỉ về ngôn ngữ mà còn về truyền thống, phong tục, tập quán, phong cách kinh doanh, do vậy có thể phát sinh những mâu thuẫn không dễ gì giải quyết.

Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài

Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước đầu tư nước ngoài do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.

Vốn pháp định của Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư. Đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án đầu tư vào địa bán khuyến khích đầu tư, dự án trồng rừng, dự án có quy mô lớn, tỷ lệ này có thể thấp hơn nhưng không dưới 20% vốn đầu tư và phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp nhận.

Ngoài các loại hình doanh nghiệp kể trên, còn một số loại hình doanh nghiệp đặc thù khác được thành lập và tổ chức theo luật chuyên ngành như văn phòng luật sư, công ty luật, ngân hàng, tổ chức tín dụng…